Sinh viên Phong_trào_phản_chiến_trong_Chiến_tranh_Việt_Nam

Đại sứ Hoa Kỳ kéo 1 người phản kháng chiến tranh ở Washington, DC, 1967.

Trong những năm 1960, có rất nhiều bất ổn về công việc trong các trường đại học khi sinh viên ngày càng tham gia Phong trào Quyền Công dân, Chủ nghĩa Feminist Thứ haiPhong trào chống chiến tranh. Doug McAdam giải thích thành công của việc vận động quần chúng các tình nguyện viên cho Tự do Mùa Hè về "Tính sẵn có của Tiểu sử", nơi các cá nhân phải có 1 mức độ tự do về kinh tế, xã hộitâm lý để có thể tham gia vào các phong trào xã hội quy mô lớn.[4] Giải thích này cũng có thể được áp dụng cho Phong trào Chiến tranh vì nó xảy ra cùng thời gian và cùng các yếu tố tiểu sử được áp dụng cho những người biểu tình chống chiến tranh ở đại học. David Meyers (2007) cũng giải thích làm thế nào khái niệm về hiệu quả cá nhân ảnh hưởng đến việc vận động quần chúng. Ví dụ, theo luận án của Meyers, xem xét rằng sự giàu có của Hoa Kỳ tăng mạnh sau Thế chiến 2. Vào thời điểm này, Mỹ là 1 siêu cường và có được sự giàu có tuyệt vời sau 30 năm trầm cảm, chiến tranh và hy sinh. Benjamin T. Harrison (2000) lập luận rằng sự giàu có sau Thế chiến II đã tạo ra giai đoạn cho thế hệ phản kháng trong những năm 1960.[5] Luận điểm trung tâm của ông là Chiến tranh Thế giới và Đại khủng hoảng đã tạo ra 1thế hệ "'từ chối tuân thủ các giá trị chính thống của Hoa Kỳ dẫn tới sự xuất hiện của người Hippies và sự đối kháng. Phong trào chống chiến tranh đã trở thành 1 phần của phong trào phản kháng lớn hơn so với các giá trị và thái độ Mỹ truyền thống. Meyers (2007) đã bác bỏ tuyên bố này trong lập luận của mình rằng "đặc quyền tương đối thích thú với giáo dục và khẳng định rằng họ có thể tin tưởng rằng họ có thể tạo ra sự khác biệt."[6] Do các yếu tố hiện tại về sự giàu có, sự sẵn có tiểu sử (được định nghĩa trong các lĩnh vực xã hội học của chủ nghĩa hoạt động như việc thiếu các hạn chế về các mối quan hệ xã hội có thể làm gia tăng hậu quả của việc tham gia vào 1 phong trào xã hội) quận, hoạt động chính trị gia tăng đáng kể trong các trường đại học.

Số tuyển sinh đại học đạt 9 triệu vào cuối những năm 1960. Các trường cao đẳng và đại học ở Hoa Kỳ có nhiều sinh viên hơn bao giờ hết, và các trường này thường cố gắng hạn chế hành vi của học sinh để duy trì trật tự trong các trường. Để chống lại điều này, nhiều sinh viên đại học trở nên tích cực trong các nguyên nhân thúc đẩy tự do ngôn luận, đầu vào của sinh viên trong chương trình giảng dạy, và chấm dứt những hạn chế xã hội cổ xưa. Sinh viên tham gia phong trào chống chiến tranh bởi vì họ không muốn chiến đấu trong 1 cuộc nội chiến nước ngoài mà họ tin rằng không quan tâm đến họ hoặc vì họ đã phản đối về mặt đạo đức đối với tất cả chiến tranh. Những người khác không thích chiến tranh vì nó chuyển hướng kinh phí và sự chú ý ra khỏi các vấn đề trong sự phát triển Trí tuệ của Hoa Kỳ và đạt được 1 quan điểm tự do trong trường đại học khiến nhiều học sinh trở nên tích cực trong phong trào chống chiến tranh. 1 nét hấp dẫn khác của phong trào phản đối là sự kiện đó là 1 sự kiện xã hội phổ biến. Như 1 sinh viên cho biết,[ai nói?] những cuộc biểu tình chống chiến tranh là những nơi "được đặt, lên cao, và lắng nghe một số tảng đá lớn".[cần dẫn nguồn]

Hầu hết các tổ chức chống lại sinh viên đều có cơ sở hoặc tại trường vì họ dễ dàng tổ chức và tham gia hơn các nhóm quốc gia. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh phổ biến cho các sinh viên đại học đã cố gắng cắt đứt mối quan hệ giữa máy chiến tranh và các trường đại học thông qua việc đốt cháy các lá thư dự thảo, phản đối các trường đại học nâng cấp các bản thảo và phản đối các hội chợ việc làm về quân độicông nghệ Dow Chemical trong khuôn viên [7][8]. Từ 1969-1970, những người phản đối học sinh đã tấn công 197 tòa nhà của ROTC tại các trường đại học. Các cuộc biểu tình đã tăng lên sau vụ bắn súng của tiểu bang Kent, củng cố ngày càng nhiều sinh viên. Mặc dù các phương tiện truyền thông thường miêu tả phong trào chống lại học sinh hiếu chiến và phổ biến rộng rãi, chỉ có 10% trong số 2500 trường cao đẳng Hoa Kỳ đã có những cuộc biểu tình bạo lực trong suốt những năm chiến tranh ở Việt Nam. Vào đầu những năm 1970, hầu hết các phong trào phản kháng của sinh viên đã chết vì cuộc tổng tấn công của Tổng thống Nixon, cuộc suy thoái kinh tế và sự vỡ mộng với sự bất lực của phong trào chống chiến tranh.[9]